Bài viết “Lincoln và Bên Thắng Cuộc” của tôi tạo khá nhiều tranh luận trên các diễn đàn. Một câu hỏi thú vị là, “nếu Mỹ hào phóng rộng lượng như tinh thần Lincoln, thì sao không đem tiền tái thiết Việt Nam và giúp các nạn nhân chất độc da cam sau 1975?” Tôi nói đùa là các bạn quên rồi, Mỹ thuộc phe thua cuộc, lẽ ra Việt Nam phải đem tiền qua Mỹ giúp người thất thế chứ.
Nghiêm túc hơn, nhìn lại lịch sử, tôi nhận thấy các nhà cầm quyền Mỹ đã khá rộng rãi với Việt Nam trong thời hậu chiến. Trước khi viết tiếp về góc nhìn này, tôi muốn xác định rõ nơi đây:” Tôi không phải là một sử gia, không hề nghiên cứu sâu rộng về vấn đế này và không có những tư liệu gì ngoài các bài phân tích và tin tức tôi đọc trên các mạng truyền thông.” Do đó, quan điểm của tôi có thể chứa nhiều sai lầm và đó cũng là lý do tôi đem đề tài này ra đây để mọi người góp ý, tạo nhiều góc nhìn đa dạng phong phú hơn. Khi comment, tôi xin các bạn giữ ý kiến mình trên các sự kiện lịch sử , đừng bẻ lái đến một trường phái chính trị nào, hay hô hào khẩu hiệu vì sau 68 năm, tôi đã phải lắp bắp nhiều lần…biết rồi, khổ lắm, nói mãi.
Theo tôi biết, năm 1977, khi lên nắm quyền, dù chuyện Việt Nam không đem lại một lợi ích chính trị nào (dân Mỹ vừa chán ghét cuộc chiến tranh dài lê thê này, vừa bị nhục thua trận), Tổng thống Carter qua kênh ngoại giao không chánh thức đã ngỏ ý với các lãnh đạo Hà Nội là muốn tái lập bang giao và sẽ viện trợ nhân đạo cho một chương trình tái thiết hậu chiến. Câu trả lời sau đó từ phía Việt Nam trong suốt nhiệm kỳ 4 năm của Carter là Mỹ phải “bồi thường chiến tranh” (dường như con số đưa ra là 2 tỷ USD thời đó) , “xin lỗi chánh thức Việt Nam” trước khi nói đên chuyện thiết lập bang giao (vì chúng tao mới thắng bọn chúng mày, hãy đến mà xin tha thứ).
Thái độ này đã làm Carter thất vọng và do đó, khi khi Đặng Tiểu Bình đến Mỹ thăm Carter, ông ta còn báo trước cho Mỹ biết là sắp sửa dậy cho Việt Nam “một bài học” về chuyện Việt Nam can thiệp vào Kampuchea. Tòa Bạch Ốc nói, ‘các ngài cứ tự nhiên”.
Sau khi Reagan đắc cử Tổng Thống thay Carter, với tinh thần chống Cộng cao độ, mọi thương thuyết với Việt Nam coi như chấm dứt. Chỉ sau khi đảng cộng sản tan vỡ ở Liên Xô và Đông Âu vào 1989, các nhà lãnh đạo Hà Nội mới có một “cuộc xét lại” về bang giao với Mỹ.
Tôi ca tụng nhân dân và tinh thần của nền kinh tế sáng tạo Mỹ, nhưng tôi gần như chưa bao giờ ca tụng một ông chính trị gia nào, Mỹ hay Âu hay Á. Ngoại trừ một vài sao sáng, phần lớn là những con hạm chỉ giỏi moi móc tiền OPM. Nếu Mỹ không có một cơ chế phân quyền với ngành lập pháp quyền lực, tư pháp độc lập và ngành truyền thông…soi xét từng bước đi, các chánh trị gia Mỹ còn đớp hít nhiều hơn các đồng nghiệp của họ trên thế giới (họ mập phì và vợ con có nhu cầu rất cao). Tuy nhiên, trong mọi cư xử với Việt Nam từ 1975 đến nay, ngoài thái độ dửng dưng, phần lớn lãnh đạo và nhân dân Mỹ đã không mang một “hận thù quá khứ” hay “mặc cảm thua cuộc” nào.
Ngược lại, ngoài cái “chảnh” đương nhiên của người thắng cuộc, lãnh đạo Việt Nam đã tự đặt mình vào vị thế cô lập, luôn gợi lại “tội ác Mỹ Ngụy” hàng ngày (qua các biểu ngữ và viện bảo tàng) cũng như qua các hoạt động ngoại giao “chống Mỹ cứu thế giới”. Chuyện Mỹ vẫn “cúi xin lập bang giao” với Việt Nam, trở thành một đối tác thương mại và đầu tư lớn, mở cửa xã hội cho người giàu Việt Nam qua lại, làm ăn, học hành…theo tôi, đã là một “phép lạ” của tinh thần Mỹ.
Còn chuyện “chất độc da cam hay tái thiết Việt Nam”? Tôi có chút kinh nghiệm cá nhân trong việc này. Để đem tiền hay vật liệu vào làm thiện nguyện ở Việt Nam, chánh phủ đòi hỏi một giây phép hoạt động rất nhiêu khê (khó gấp 100 lần giấy phép cho một dự án liên doanh). Ngoài ra mọi số tiền hay vật dụng đem vào phải do Mặt Trận Tổ Quốc hay một cơ quan tương tự phân phối và điều hành. Đó là lý do tại sao Indonesia, Phi Luật Tân và ngay cả Trung Quốc, đã nhận một lượng tiền thiện nguyện nhiều gấp ngàn lần Việt Nam.
Tôi không muốn phân tích sâu thêm về quyền lợi mỗi quốc gia đằng sau các quyết định chính trị. Cũng như thế liên hoàn đặc biệt của Mỹ, Việt Nam, Trung Quốc, Nhật, ASEAN… Không phải vì nó quá phức tạp (các vấn đề khi giải mã ra thường rất đơn giản, luôn bị các trí thức tháp ngà thoa son trát phấn cho cầu kỳ); nhưng vì luật Việt nam không cho tôi nói. Thôi thì xin mời các bạn vậy.
Alan Phan
Lincoln và bên thắng cuộc
Tết rồi, một người bạn Nhật Bản không về nước nên mời tôi xông đất theo tục lệ Việt; rồi ăn tối. Sau đó, cả 2 gia đình mở lên cuốn phim mới “Lincoln” để cùng ngồi coi. Cuốn phim bắt nguồn từ một cuốn sách khảo sát và tổng hợp các sự kiện lịch sử trong 4 tháng sau cùng của cuộc đời Tổng Thống Mỹ Lincoln (Tác giả: Doris Kearns Goodwin‘s ; tên sách, Team of Rivals: The Political Genius of Abraham Lincoln). Thời điểm là tháng giêng năm 1865, vào những ngày cuối của cuộc Nội Chiến Bắc Nam (Civil War); đã kéo dài 4 năm và đã tổn phí 600,000 sinh mạng của lính 2 bên.
Lãnh tụ của bên thắng cuộc
Lúc này, phần thắng coi như đã trong tầm tay của miền Bắc (đội Union). Miền Nam (đội Confederate) đang xin thương thuyết một cuộc đầu hàng với vài lá bài còn lại. Cho những ai chưa quen thuộc với cuộc Nội Chiến, nguyên nhân bắt đầu là sự xóa bỏ chế độ nô lệ trong xã hội Mỹ. Kinh tế miền Nam, chủ yếu là đồn điền nông trại, rất cần các nô lệ từ Phi Châu để điều hành. Sự giải phóng nô lệ (một loại tài sản) sẽ tạo mất mát và khủng hoảng kinh tế sâu rộng; trong khi miền Bắc không chịu ảnh hưởng kinh tế này nên chỉ muốn tiến tới một xã hội công bằng và nhân quyền của mọi người được tôn trọng hơn.
Lincoln vừa thắng cử nhiệm kỳ hai và được cử tri bình dân yêu chuộng nhờ tài hùng biện trên các diễn đàn và lối sống giản dị; trong khi các tầng lớp thượng lưu của giới chánh trị và tư bản không mặn mà với những tư duy tiến bộ mà họ cho là quá mạo hiểm cho quốc gia.
Câu chuyện quay quanh cố gắng của Lincoln lấy cho được sự chấp thuận của Hạ Viện (cần 2/3 số phiếu) để thông qua Tu Chính số 13 của Hiến Pháp Mỹ đặt “hệ thống sở hữu và điều hành nô lệ ngoài vòng pháp luật” trên mọi tiểu bang. Lý do là dù thắng trận, nếu nô lệ vẫn còn là “tài sản hợp pháp” của người dân và tùy thuộc vào luật lệ của tiểu bang, ý nghĩa sự thắng trận của phe miền Bắc coi như công cốc. Trong khi đó, vì chiến thắng đã cận kề và mọi người đã mỏi mệt qua 4 năm mất mát, nên dù đảng Cộng Hòa hay Dân Chủ, không ai muốn đụng chạm đến chuyện “nô lệ” này nữa.
Cuối cùng, Lincoln và những người nô lệ hân hoan mừng thắng cuộc, trên chiến trường và nghị trường, đem vấn đề nô lệ ra khỏi lịch sử Mỹ từ đó. Hai tháng sau, Lincoln bị ám sát chết và 143 năm sau, Obama trở thành Tổng Thống da mầu đầu tiên của Mỹ.
Cuốn phim dàn dựng rất công phu và chi tiết theo đúng lối hấp dẫn khán giả của đạo diễn Spielberg; nhưng ngoài việc đang được đề cử cho giải Oscar của phim hay nhất trong năm, phim còn là một bom tấn trên thị trường. Điều này hơi lạ vì không ai nghĩ là người dân Mỹ quan tâm đến một đề tài khô khan của lịch sử, nhất là những tranh luận và thủ thuật chánh trị trong quá khứ xa vời. Với tôi, ấn tượng nhất là cuốn sách và phim “Lincoln” đã giúp cho tôi 4 góc nhìn mới về các sự kiện 150 năm về trước trong bối cảnh của thực tại hiện nay.
- 1. Đây mới gọi là nghiên cứu và khảo sát lịch sử
Rất nhiều tư tưởng hiện tại về quốc gia, về các nhân vật lịch sử và về hệ quả của các hành xử chính trị hay quân sự thường dựa trên những định kiến và những tài liệu xa xưa chứa nhiều huyền thoại và sai lầm. Ngay cả trong 100 năm trở lại đây, khi tiến bộ về khoa học và nhân văn đã phổ thông toàn cầu, phần lớn những trích dẫn về dữ kiện lịch sử của Việt Nam lại đến từ ghi chép của các sử gia nước ngoài. Các tài liệu tôi đã đọc về sử Việt cho thấy những bài viết rất hời hợt, chủ quan và mang tính cách tuyên truyền cho một trường phái nào đó trên quan điểm chánh trị hay xã hội (đây là kết luận có thể sai lầm của tôi vì chưa đọc nhiều và đủ từ các sử gia Việt?).
Ngay cả khi một giả thuyết nghi ngờ về thân thế của một nhân vật lịch sử quan trọng xuất hiện trên mạng, đề tài này được bàn tán sôi nổi vì bí mật bao quanh sự kiện. Một cuộc khảo sát DNA mất 5 phút có thể cho ta lời giải đáp chính xác. Nhưng không một sử gia nào được phép liên quan. Khi khoa học và minh bạch đi vắng, thì góc nhìn của mọi người nhất định phải bị méo mó và thui chột.
Cuốn sách của Goodwin chỉ phủ trùm 4 tháng của cuộc đời Lincoln và chì đặt trọng tâm vào sự kiện Tu Chính 13 của Hiến Pháp Mỹ. Nhưng những chi tiết trích dẫn cho thấy một công trình khoa học, khách quan và có thể dậy cho chúng ta phân biệt thế nào là “lịch sử” và thế nào là “tiểu thuyết”. Những cái hay, cái đẹp, cái thiện được phơi bày rõ ràng cùng với những cái dở, cái xấu, cái ác…của các nhân vật và môi trường sinh hoạt 148 năm trước. Ngay cả những rắc rối khó khăn trong gia đình Lincoln, nhất là vấn đề của vợ con, cũng được phơi bày tường tận.
Santayana nói là những ai quên quá khứ sẽ phải trả giá cho sự tái diễn. Liệu sự ngu dốt của chúng ta về “sự thật” không nhuốm mầu chánh trị trong các sự kiện lịch sử chỉ mới xẩy ra chưa đến 100 năm có thể là một gánh nặng văn hóa và tư duy cho nhiều thế hệ sau này của Việt Nam?
- 2. Chính trị gia thời nào nơi nào cũng thế
Trong cuộc tranh giành từng lá phiếu để thông qua Tu Chính 13, Lincoln và phe nhóm ông ta đã phải dùng đến rất nhiều thủ thuật để có đủ 2/3 số phiếu. Họ đã phải hối lộ (không bằng phong bì mà bằng những ban phát phát chức vụ trong chánh quyền mới), phải thỏa hiệp với những tay thao túng lợi ích (power brokers), phải chia để trị, phải đe dọa, phải dỗ dành….Tóm lại, tất cả những sắp xếp sau hậu trường (horse-trading) không khác gì những gian dối mua bán quyền lực và lợi ích ngày nay trên các sân khấu chánh trị từ Âu Mỹ đến Phi Á.
Quyền lợi cá nhân của đa số chính tra gia luôn đặt trên các lợi ích quốc gia hay lý tưởng cộng đồng. Do đó, nếu không có một thể chế phân quyền và minh bạch, sự lạm dụng quyền lực sẽ luôn luôn đi quá đà và tạo nên những thao túng pháp luật vô cùng trắng trợn và táo bạo.
Sự khôn ngoan của các bậc trí thức khi tạo dựng hiến pháp Mỹ và các tuyên ngôn dân quyền đã đem sự ổn định chánh trị và xã hội của Mỹ trong suốt 250 năm qua.
- 3. Tinh thần thượng tôn pháp luật
Lý do chính khiến Lincoln phải vội vã đưa ra biều quyết cho Tu Chính 13 khi chiến thắng của miền Bắc đã gần kề là sự giải thích pháp luật theo cái nhìn của một luật gia với mọi văn kiện pháp lý. Theo Lincoln, nếu hiến pháp không đặt chuyện “nô lệ” ra ngoài vòng pháp luật, thì luật vẫn cho nô lệ là một tài sản và thuộc quyền xử lý của tiểu bang. Tóm lại, dù thắng trận, chánh phủ liên bang cũng không có quyền đụng đến “tài sản của dân” và không thể áp buộc các chủ nô lệ phải “giải phóng” hay “ chịu sự tước đoạt” của bất cứ thẩm quyền nào.
Ở xứ Trung Quốc, khi quan điểm của ông Chủ Tịch Mao là “ người cầm súng đặt ra luật lệ” thì không ai thắc mắc về những văn kiện hay điều lệ tiềm ẩn có thể gây tranh cãi tại các tòa án. Chính vì vậy, Lincoln đã tốn bao nhiêu vốn chính trị, đêm không ngủ, thực thi kế sách…để Tu Chính 13 được Hạ Viện thông qua. Tinh thần thượng tôn pháp luật của 1 vị Tổng Thống quyền lực và vừa thắng trận 148 năm trước không biết có làm các lãnh tụ bé hon ngày nay phải xấu hổ vì sự ngạo mạn chà đạp lên mọi luật lệ và công lý của xã hội?
- 4. Không trả thù bại quân và dân và không cướp giật tài sản
Tuy nhiên, điều ấn tượng nhất trong cuốn sách là hai tuần trước khi miền Nam chính thức đầu hàng, Lincoln đã gặp tướng U. S. Grant, thống soái đạo quân miền Bắc cùng các tướng lãnh chỉ huy khác, và dặn dò đi lại nhiều lần là,” khi chiến tranh chấm dứt, hãy trả tự do mọi tù nhân chiến tranh (bại quân và bại dân) và giúp họ quay về nhà sớm để mưu sinh lo cho gia đình. Tuyệt đối không được đụng đến tài sản của dân (dù thua cuộc, tất cả bây giờ đều là công dân), không được trả thù và phải nghiêm trị mọi vi phạm pháp luật, nhất là của các quan cán chức hay binh sĩ của phe thắng trận”.
Ngoài ra, trong những đề nghị ngân sách các năm sau đó, các lãnh tụ kế tiếp của miền Bắc đã luôn dành ưu tiên cho việc tái thiết miền Nam để hàn gắn những đổ vỡ về vật chất cũng như tinh thần.
Tinh thần nhân hậu và cách đối xử văn minh của phe lãnh đạo miền Bắc đã tạo nên một tiền lệ lịch sử cho tinh thần xứ Mỹ: luôn luôn chăm lo cho phe thua cuộc hơn là băm xẻ những miếng mồi ngon bở cho phe nhóm mình. Sau trận thắng huy hoàng ở Thế Chiến 2, Mỹ đã bơm nhiều tỷ đô la thời đó vào chương trình Marshall để tái thiết Âu Châu và MacArthur đã giúp Nhật rất nhiều để xây một nền tảng pháp lý mới cho một nền kinh tế mới.
Nhân và quả của một chánh sách
Bản chất nhân hậu, lương thiện, tôn trọng luật pháp và đặt lợi ích quốc gia trên quyền lợi cá nhân đã biến Lincoln thành một vị Tổng Thống vĩ đại của nước Mỹ. Cùng với các thận cần như Tướng Grant, các Bộ Trưởng Seward, Stanton…họ đã thay đổi định mệnh của xứ Mỹ. Chỉ 25 năm sau, mọi thành kiến, thù hận về cuộc nội chiến đã được xóa bỏ trong lòng người dân Mỹ. Giữa hai bên, phe thắng cuộc và thua cuộc, những rào cản pháp lý hay xã hội không cón hiện diện. Atlanta vươn lên từ đống tro tàn và trở thành một trong những thành phố đáng yêu nhất của miền Nam.
40 năm sau đó, xứ Mỹ qua mặt đế chế Anh về kinh tế và trở thành một đế chế siêu cường chỉ 60 năm sau nội chiến tương tàn để thay thế cho đế chế Anh vừa tàn lụi.
Tôi nói với người bạn Nhật,” nếu chúng tôi có một lãnh tụ như Lincoln 150 năm trước, lịch sử Việt Nam sẽ thay đổi nhiều.” Anh bạn cười, “Lúc đó, chúng tôi phải xếp hàng chờ qua Việt Nam để học hỏi các anh.”
Sao dân tộc Mỹ may mắn đến thế?
Alan Phan
0 nhận xét:
Đăng nhận xét