Nguyễn Quang Ngọc
Bài trả lời phỏng vấn trên Việt Nam thông tấn xã do phóng viên Kiều Trinh thực hiện ( Bản đã được tác giả sửa chữa và là ý kiến chính thức của tác giả về vấn đề này)
Lời tòa soạn
Cuộc sống của một đất nước trước biển như nước ta không đẹp dịu dàng, uyển chuyển như những hoa văn vỏ sò. Từ rất sớm, dân tộc ra đã đối mặt với sóng dữ, và trên hết, chinh phục biển. Cùng GS Nguyễn Quang Ngọc, Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam nói về truyền thống, thành tựu chinh phục biển của người Việt Nam.
* Đỉnh cao khai thác biển Chămpa và Phù Nam
- Một nhà nghiên cứu cho rằng người Việt Nam mình trong tâm thức đã né biển. Vì né biển nên mới có câu như “rừng vàng, biển bạc”, hay những nhân vật làm nghề chài lưới thường chỉ có thân phận thấp kém trong các tích truyện. Ông nghĩ sao về nhận xét này?
Kể ra, nếu chỉ nói người Việt (người Kinh) ở vùng châu thổ sông Hồng thì cũng có bộ phận “xa rừng, nhạt biển” (chữ của GS Ngô Đức Thịnh) thật. Cái lý của hiện tượng là vì người Việt châu thổ sông Hồng gần như giải quyết được tất cả các thứ để củng cố một nền kinh tế mang tính tự cấp tự túc. Cũng phải nói ngay là ở đâu thì kinh tế tự cấp tự túc cũng chỉ mang tính tương đối, chứ trên thực tế thì chẳng có anh nào có thể tự cấp tự túc một cách triệt để được. Trong một làng người ta có thể sản xuất và mua bán, trao đổi đủ thứ tại chợ của làng mình. Cho nên vươn ra biển một cách mạnh mẽ thì dân cư ở châu thổ sông Hồng xem ra không bằng nhiều vùng khác, nhưng đừng vì thế mà vội cho rằng người Việt Nam ta né biển và cũng không nên suy diễn chủ quan rằng “rừng vàng , biển bạc” là rừng quý hơn biển. Nói “rừng vàng , biển bạc”, trong thực tế tổ tiên ta không có ý so sánh rừng với biển, mà chỉ biểu thị một quan niệm chung là cả rừng và biển đều vô cùng quý.
Cần phải nhớ rằng tổ tiên người Việt ở khu vực phía Bắc cũng đã khai chiếm biển từ rất sớm. Không phải ngẫu nhiên mà sự tích Hồng Bàng mở nước lại giải thích dòng giống của người Việt là sự “kết duyên” của hai giống Tiên - Rồng: Tiên là Âu Cơ thuộc Lục quốc ở trên cạn và Rồng là Lạc Long Quân thuộc Thủy quốc ở miền duyên hải, hải đảo. Hùng Vương (con trưởng) dựng nước Văn Lang là sự kết hợp giữa Rừng với Biển, giữa các bộ tộc miền núi với các bộ tộc miền biển.
Khảo cổ học cũng chỉ ra rất rõ những lớp người cổ từ Hậu kỳ thời đại đồ Đá cũ đã từ các vùng nội địa Việt Nam tiến ra chiếm lĩnh, khai phá, sinh sống trên các đảo, quần đảo ngoài Biển Đông. Trên vùng bờ biển Quảng Ninh, Hải Phòng và trên một số đảo trong vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra nhóm di tích Soi Nhụ nằm trong khung niên đại của Hòa Bình và Bắc Sơn.
Tiếp nối Soi Nhụ là Cái Bèo ở Cát Bà, Hải Phòng; tiếp nối Hòa Bình có Quỳnh Văn ở Quỳnh Lưu, Nghệ An, Bàu Dũ ở Tam Kỳ, Quảng Nam… tất cả đều vươn ra biển và khai thác biển đấy chứ. Tiếp sau Cái Bèo là Hạ Long. Văn hóa Hạ Long chạy dài suốt cả dải ven biển, sang cả miền nam Trung Quốc và xuống nhiều nơi ở Đông Nam Á.
Văn hóa Sa Huỳnh đâu chỉ có ở dọc dải đảo ven biển miền Trung và miền nam Trung Bộ, mà vươn xa ra cả Trường Sa, thậm chí sang cả Philippine.
Có thể nói ở những thời điểm này, thời điểm khác, vùng này, vùng khác, với những lý do và điều kiện cụ thể có những bộ phận dân cư “nhạt biển” và bộ phận ấy tập trung chủ yếu ở châu thổ sông Hồng thôi, chứ càng đi vào miền Trung, miền Nam sự hướng biển của dân tộc ta càng tăng lên.
- “Sát vách” với đồng bằng sông Hồng, tại sao miền Trung lại hướng biển mạnh hơn, thưa ông?
Yếu tố địa hình có thể giải thích tại sao miền Trung lại tiến ra biển rất sớm và rất mạnh. Bởi vì phía trên là dãy Trường Sơn, dải đồng bằng lại hẹp, không đủ để nuôi sống con người. Chỉ trồng lúa mà bám lấy cánh đồng thì đói. Thêm việc dân cư phát triển thì không còn cách nào khác phải hướng ra biển. Nên từ rất sớm, những bộ tộc người sống trên dải đất miền Trung từ Hậu kỳ đồ Đá mới sang đến Sơ kỳ của thời đại đồ Đồng đã tiến ra biển rất nhiều rồi.
Với miền Trung, ta có thể nói tới kỳ tích khai thác biển của vương quốc Chămpa. Chămpa thực sự là Vương quốc biển, sự phát đạt và giầu có của họ là từ biển mang đến. Đó chính là vương quốc khai thác biển vào loại mạnh nhất châu Á. Điều này đã được thế giới công nhận.
- Còn sự mạnh mẽ trước biển của cư dân miền Nam thì sao, thưa ông?
Tương đương với Vương quốc Chămpa chính là Vương quốc Phù Nam. Mà Phù Nam hình thành và nhanh chóng phát triển thành Đế chế Phù Nam hùng cường ở Đông nam châu Á chính là nhờ biển chứ. Cho nên các nhà nghiên cứu mới cho rằng văn hóa Phù Nam là văn hóa đô thị, văn hóa thành thị, văn hóa cảng thị, mà đô thị, thành thị hay cảng thị thì cũng đều là do khai thác biển mà có. Giáo sư Sakurai Yumio của Đại học Quốc gia Tokyo (Nhật Bản) còn gọi Óc Eo - Phù Nam là trung tâm “liên thế giới”, vì nó nằm ở đầu mối của tuyến đường hàng hải quốc tế từ Đông sang Tây, Tây sang Đông (khi đó thuyền từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương và ngược lại đều qua eo Kra ở Thái Lan nên Óc Eo mới trở thành cảng thị trung tâm). Óc Eo - Phù Nam sở dĩ phát triển đột khởi như vậy chính là nhờ biển.
- Nghĩa là người Việt chúng ta có một lịch sử khai thác biển thật đáng tự hào phải không, thưa ông?
Các nguồn tư liệu lịch sử, văn hóa, khảo cổ học cho phép nhận định cùng với quá trình hình thành đất nước Việt Nam, con người Việt Nam, tổ tiên chúng ta đã đồng thời khai chiếm cả núi rừng, cả đồng bằng và biển cả, đã triệt để khai thác điều kiện tự nhiên sẵn có để tạo nên sức sống căn bản của cộng đồng. Đành rằng cũng có nơi này, nơi kia, nhóm này nhóm nọ, trong các hoàn cảnh và điều kiện cụ thể không giống nhau, việc tổ chức khai thác biển mạnh yếu khác nhau, nên chớ có lấy cái bộ phận để nói thay cho cái tổng thể. Nếu như có ai đó nói người Việt Nam chúng ta quay lưng lại với biển, né tránh biển và không hề khai thác biển, thì có lẽ họ đã không hiểu lịch sử Việt Nam!.
Thời kỳ dựng nước đầu tiên ta có ba trung tâm lớn. Châu thổ sông Hồng với nhà nước Âu Lạc cũng đã có sự kết hợp rừng biển mà tôi đã giải thích ở trên.
Tuy vậy, do đặc điểm của châu thổ này mà có thể có một bộ phận cư dân không quan tâm nhiều đến biển, nhưng lớp cư dân Hạ Long khai thác biển rất mạnh cả ở gần bờ và xa bờ. Hai trung tâm còn lại là Chămpa và Phù Nam thì chủ yếu sống bằng khai thác biển và có lịch sử khai thác biển khá ngoạn mục. Đặc biệt Phù Nam ở phía Nam phát triển đột khởi vì nó là cảng thị, là trung tâm “liên thế giới”.
Sau này, thậm chí nó còn trở thành đế chế thống trị toàn bộ Đông Dương, lục địa Đông Nam Á vì nó khai thác biển. Nếu chỉ là đất liền thì Phù Nam không mạnh đến thế.
Về nguồn gốc tạo thành lịch sử, văn hóa Việt Nam có thể hình dung là như vậy. Còn trong quá trình phát triển về sau, con đường Nam tiến của người Việt cũng là dựa vào biển. Đường vào Nam nói như GS Trần Quốc Vượng là hết đèo này đến đèo kia ngăn cách, nên phải dùng thuyền vượt biển, ít ra là vùng cận duyên.
Quá trình khai phá vùng đất Nam Bộ cũng còn là quá trình đồng thời các đoàn thuyền vươn ra chiếm lĩnh các đảo, quần đảo giữa biển khơi như Hoàng Sa và Trường Sa, Côn Lôn, Phú Quốc, Thổ Chu… Khi mới tiến vào vùng đồng bằng sông Cửu Long, lưu dân người Việt thường dùng thuyền vượt biển, đi vào các cửa sông, khai khẩn các vùng triền sông, duyên hải, đồng thời tỏa ra khai chiếm các đảo, quần đảo.
Người dân vùng Bình Định vẫn thường nhắc nhau: “Ai về nhắn với nậu nguồn/ Măng le gửi xuống cá chuồn gửi lên”. Họ hàng ngày trông chờ hàng hóa gửi từ biển lên và từ rừng xuống hội lại ở miền đồng bằng. Người ở đồng bằng trồng lúa cung cấp cho cả cho vùng núi và vùng biển, đồng thời cũng điều tiết luôn cả các loại hàng hóa thủy hải sản, lâm thổ sản. Người nông dân tuy chỉ cày cuốc trên cánh đồng, nhưng trong cuộc sống của họ vẫn gắn bó máu thịt với cả rừng và biển. Đừng chỉ vì nhìn thấy họ cặm cụi cày cuốc mà bảo họ không biết gì về biển và quay lưng lại với biển.
- Nhưng một nhà nghiên cứu khác lại nói ta không có nghề buôn đường xa mà chỉ chờ người ta đến?
Thời gian gần đây có thể như vậy, nhưng trước đây Việt Nam có nhiều thương cảng rất nổi tiếng. Hội An là một thương cảng được UNESCO công nhận với tư cách là một thương cảng quốc tế có giá trị nổi bật toàn cầu. Thăng Long, Phố Hiến, Domea, Thanh Hà, Nước Mặn, Cù Lao Phố, Sài Gòn-Bến Nghé. Mỹ Tho, Hà Tiên… cũng là những trung tâm trao đổi hàng hóa quốc tế lớn. Trong số thuyền bè đi lại, tất nhiên chủ yếu của các nước cập bến, nhưng thuyền của ta đi lại cũng không ít. Có lần sang Nagasaki (Nhật Bản) tôi thấy người ta giới thiệu về thuyền Quảng Nam đến buôn bán ở đó. Thậm chí, chúa Nguyễn Phúc Nguyên còn gả con gái của mình cho nhà buôn lớn rất nổi tiếng ở Nagasaki là Araki Soutaro. Vợ chồng nhà buôn này giữ vai trò rất quan trọng trong kết nối thương mại trên biển giũa Nagasaki và Hội An. Ở Nagasaki đến nay vẫn còn lễ hội về công chúa A Nhoi, mà hình ảnh ấn tượng nhất là rước thuyền vượt biển. Điều đáng quan tâm là tại đây từng có một đội ngũ những người làm phiên dịch tiếng Việt gọi là Tông Kinh thông sự (Tông Kinh lúc đó là khu vực Đàng Ngoài do vua Lê chúa Trịnh cai quản, còn thông sự là phiên dịch). Đây là những người chuyên phiên dịch tiếng Việt ở hải cảng và thành phố Nagasaki cửa ngõ mở ra với Thế giới của Nhật Bản.
* Đứng trước biển gian nan nhưng là lẽ sống Như vậy, có nghĩa là chúng ta đã tiến ra khai chiếm đảo ở biển Đông từ rất sớm?
Đúng như thế. Tôi mới có một bài trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử về điều này. Từ thời kỳ nhà Lý, năm 1147 vua Lý Anh Tông đã từng lập hành dinh trại Yên Hưng (thị xã Quảng Yên) để quản lý và khai thác biển; sau đó 2 năm, năm 1149, ông cho mở trang Vân Đồn ở khu vực vịnh Hạ Long để làm nơi tổ chức buôn bán với các nước. Rồi cũng chính ông đã tổ chức các cuộc điều tra khảo sát, vẽ bản đồ các vùng biển đảo, quản lý khai thác các vùng biển đảo vào đầu thập kỷ 70 của thế kỷ 12. Các đời Lý, Trần, Lê đời nào cũng đều có chiến lược biển đảo.
Đến đầu thế kỷ XVII, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên thành lập đội Hoàng Sa để khai thác, kiểm tra, kiểm soát, thực thi chủ quyền trên các vùng biển đảo giữa Biển Đông. Vua Gia Long đầu thế kỷ XIX khảng định chủ quyền tuyệt đối của Vương triều do ông sang lập ở các đảo này, khiến cho người phương Tây đương thời cho rằng ông là người duy nhất trên thế giới đã cắm lá cờ của mình lên trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa mà không có bất cứ một ai có thể tranh giành với ông. Gia Long là vị vua có một sự nghiệp lẫy lừng trên biển. Ông còn mời hải quân Pháp xây dựng những hạm đội hùng mạnh để bảo vệ vương triều, bảo vệ biển đảo. Trước đó, Vương triều Tây Sơn cũng có chiến lược biển đảo và hải quân Tây Sơn đã từng làm chủ các vùng biển đảo, khiến cho nhiều kẻ lăm le xâm lấn phải bao phen bạt vía kinh hồn.
- Ngoài Chămpa, Phù Nam chúng ta còn có điều gì đáng nói về khai thác biển nữa, thưa ông?
Có chứ, Hà Tiên chẳng hạn. Gần đây có một số công trình nghiên cứu về Hà Tiên dựa trên rất nhiều tư liệu nước ngoài và thấy đây là một ví dụ về khai thác biển điển hình ở Nam Bộ thế kỷ XVIII. Hà Tiên là nơi cung cấp lúa gạo cho nhiều nơi ở Đông Nam Á. Hà Tiên cũng đồng thời là trung tâm trung chuyển thiếc.
Điều thú vị là sản xuất lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long, sản xuất thiếc ở Palembang/Bangka và sự bùng nổ thương mại giữa Hà Tiên và Quảng Châu có mối liên hệ chặt chẽ với nhau trong cùng một thời kỳ. Vào những năm 1760-1780,
sản xuất thiếc ở Palembang/Bangka đạt đến đỉnh cao - trở thành một yếu tố thúc đẩy thương mại ở Hà Tiên và Đàng Trong. Hà Tiên với vị trí chiến lược bên bờ vịnh Thái Lan đã tận dụng những lợi thế của mình để trở thành điểm trung chuyển chủ yếu của các hàng hóa như lúa gạo, thiếc cung cấp cho các thị trường Đông Nam Á và Trung Hoa.
Nam Bộ tuy mới khai phá từ thế kỷ XVII, nhưng cuối thế kỷ đó đã trở thành một vùng đất trù phú phát triển mạnh với 4 trung tâm kinh tế hàng hóa và giao thương quốc tế lớn. Đó là Cù Lao Đại Phố (Biên Hòa, Đồng Nai), Bến Nghé - Sài Gòn (thành phố Hồ Chí Minh), Mỹ Tho Đại Phố (Mỹ Tho, Tiền Giang) và Hà Tiên Nam Phố (Hà Tiên, Kiên Giang). Nếu dân ta chỉ biết cày ruộng không thôi thì làm sao phát triển được như thế. Tất nhiên, trong đó có vai trò đáng kể của người Hoa, nhưng những người sản xuất và trao đổi hàng hóa, làm nên sự năng động và phồn vinh của vùng đất Nam Bộ, phải là dân Nam Bộ, trong đó người Việt giữ vai trò chủ đạo.
- Nghĩa là, theo ông, người Việt Nam hướng biển phải không?
Nếu chỉ nói người Việt không thôi thì từng nơi, từng lúc cũng có những bộ phận nhạt biển. Còn nếu nói người Việt Nam nói chung thì là hướng biển.
Người ở vùng đồng bằng sông Hồng cũng đứng trước biển, tuy không được như miền Trung và miền Nam. Còn miềnTrung, miền Nam với tình thế đặc biệt đó mà không vươn ra biển thì không tồn tại được, chứ chưa nói là phát triển, cho nên vươn ra biển đã trở thành nhu cầu sinh tồn.
Cũng phải nói một cách công bằng là đứng trước biển thì vô cùng gian khó. Như Nhật Bản gần đây chẳng hạn, chỉ một cơn sóng thần là có thể xóa đi tất cả. Còn cướp biển nữa chứ. Những trận cướp kinh hoàng trong lịch sử nhân loại dường như đều là cướp biển phải không. Mới đây, tàu ta bị cắt cáp cũng có khác gì kiểu hành sử này. Ra biển gian nan, nguy hiểm là thế, nhưng không thể không đi. Người dân đảo Lý Sơn bị thiên nhiên và con người hành hạ đủ đường nhưng họ có chùn bước đâu, vì ra biển là lẽ sống của con người. Họ vẫn đọc cho chúng tôi nghe một cách say sưa những câu ca dao cổ với trọn vẹn niềm tự hào: “Trường Sa đi có về không/ Lệnh vua sai phái quyết lòng ra đi”; “Hoàng Sa mây nước bốn bề/ Tháng hai khao lề thế lính Hoàng Sa”…. Biết chắc đi ra Hoàng Sa, Trường Sa, đi ra đại dương mênh mông là gian khổ và hy sinh, nhưng họ nào có chùn bước, vì từ trong tâm khảm họ đấy chính là Tổ quốc, là Quê hương và là lẽ sống của mình.
Cũng phải nói một cách công bằng là đứng trước biển thì vô cùng gian khó. Như Nhật Bản gần đây chẳng hạn, chỉ một cơn sóng thần là có thể xóa đi tất cả. Còn cướp biển nữa chứ. Những trận cướp kinh hoàng trong lịch sử nhân loại dường như đều là cướp biển phải không. Mới đây, tàu ta bị cắt cáp cũng có khác gì kiểu hành sử này. Ra biển gian nan, nguy hiểm là thế, nhưng không thể không đi. Người dân đảo Lý Sơn bị thiên nhiên và con người hành hạ đủ đường nhưng họ có chùn bước đâu, vì ra biển là lẽ sống của con người. Họ vẫn đọc cho chúng tôi nghe một cách say sưa những câu ca dao cổ với trọn vẹn niềm tự hào: “Trường Sa đi có về không/ Lệnh vua sai phái quyết lòng ra đi”; “Hoàng Sa mây nước bốn bề/ Tháng hai khao lề thế lính Hoàng Sa”…. Biết chắc đi ra Hoàng Sa, Trường Sa, đi ra đại dương mênh mông là gian khổ và hy sinh, nhưng họ nào có chùn bước, vì từ trong tâm khảm họ đấy chính là Tổ quốc, là Quê hương và là lẽ sống của mình.
Xin cảm ơn ông!
Kiều Trinh (thực hiện)
Nguồn: http://thethaovanhoa.vn/133N20110710213718644T0/noi-nguoi-viet-nam-khong-huong-bien-la-khong-biet-su.htm
Nguồn: http://thethaovanhoa.vn/133N20110710213718644T0/noi-nguoi-viet-nam-khong-huong-bien-la-khong-biet-su.htm
http://chuyencuachi.blogspot.com/2011/07/noi-nguoi-viet-nam-khong-huong-bien-la.html#comment-form
0 nhận xét:
Đăng nhận xét